Từ
xưa đến nay bên Trung Quốc, người ta thường nhắc đến bốn đại mỹ nhân,
đó là Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quí Phi. Theo sử
sách Trung Quốc những mỹ nhân này có sắc đẹp làm khuynh đảo cả một đất
nước, thay đổi cả lịch sử. Nhan sắc của họ được ca ngợi là " lạc nhạn
" (chim nhạn sa xuống đất), " trầm ngư " (cá chìm sâu dưới nước), " bế
nguyệt " (mặt trăng phải giấu mình) và " tu hoa " (khiến hoa phải xấu
hổ).
Tính cho tới bây giờ:
- Tây Thi là người đẹp "già" nhất khoảng thế kỷ 7 TCN , sau đó là:
- Vương Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN.
- Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3.
- Dương Quý Phi. Thời nhà Đường, 719-756.
Tây Thi là
con một người kiếm củi họ Thi, nàng dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm,
thuộc nước Việt cổ . Trữ La có hai thôn : thôn Đông và thôn Tây, nàng ở
thôn Tây nên gọi là Tây Thi. Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả
khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn.
Khi cô giặt áo bên bờ sông, bóng cô soi trên mặt nước sông trong suốt làm cô thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy ảnh cô, say mê đến quên cả bơi, dần dần chìm xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng gọi cô là " Tây Thi Trầm Ngư " .
Đời
Xuân Thu (722-479 trước D.L.), hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau
trận đại bại tại Cối Kê, vua Việt là Câu Tiễn phải mình trần sang lạy
vua Ngô là Phù Sai xin hàng. Ngô vương bắt vợ chồng Câu Tiễn phải sang
Ngô làm con tin, có quan Tướng Quốc là Phạm Lãi theo hầu. Cả ba đều bị giam trong ngục đá.
Hằng ngày
vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi phải cắt cỏ, hốt phân ngựa, gánh nước
rửa dọn chuồng ngựa, kiếm củi nấu cơm... Suốt thời gian ba năm, chúa
tôi sống một cách vô cùng vất vả cực nhọc, những vẫn bền chí đợi thời.
Một hôm vua Ngô đau, Câu Tiễn nghe theo lời của Phạm Lãi là chịu nếm
phân của vua Ngô để được vua Ngô tin kẻ hàng giữ dạ trung thành. Nhờ đó mà cả ba được phóng thích về nước. Sau khi được thả về, lòng uất ức căm hờn mong rửa được nhục thù. Đại phu Văn Chủng hiến 7 kế phá Ngô. Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để làm mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm, tuyển được hai ngàn mỹ nữ, lại chọn hai người đẹp nhứt là Tây Thi và Trịnh Đán. Câu Tiễn sai Tướng quốc Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước hai nàng
về, trang sức lộng lẫy, cho ngồi trong xe có màn phủ. Người trong
nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài cõi đón. Đường xá chật ních những người. Phạm Lãi liền để hai nàng ở nhà quán xá rồi truyền dụ rằng: " Ai muốn xem mặt mỹ nhân phải nộp một đồng tiền " . Chỉ trong một lúc mà tiền thu đầy quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa bao lơn, khác nào
như tiên nga giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài cõi ba ngày, tiền thu
không xiết kể. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ Thành, rồi sai một
lão nhạc sư đến dạy múa hát.
Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Đán cùng số mỹ nữ học múa hát đã được tinh xảo, Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai. Phạm Lãi vào yết kiến, sụp lạy vua Ngô, tâu rằng:
- Đông hải tiện thần là
Câu Tiễn cảm ơn đại vương, không thể đem thê thiếp đến hầu hạ ở bên
cạnh được, vậy cố tìm khắp trong nước được hai mỹ nhân khéo nghề múa
hát nên sai chúng tôi đem nộp vương cung để giữ việc quét rửa.
Ngô vương trông thấy hai nàng, cho là tiên nữ trên trời mới giáng hạ, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn đăm đăm một cách say sưa. Phù Sai rất lấy làm hài lòng nhận lấy mỹ nữ. Tây Thi và Trịnh Đán được Phù Sai yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say đắm nên Ngô vương sủng ái hơn.
T ây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai, mỗi khi đi chơi đâu thì nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Trịnh Đán ở Ngô cung, ghen với Tây Thi, uất ức không nói ra được, hơn một năm thì chết. Phù Sai thương lắm, đem chôn ở núi Hoàng Mao và lập đền thờ cúng.
Phù
Sai yêu Tây Thi, sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh
Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở
đấy có lập ra Hưởng Điệp lang . Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là
chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở
đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc
lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp. Trên núi có
hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương,
nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở
bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi. Lại có động gọi là động Tây
Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều
chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài,
Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người
trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa.
Nay vẫn còn một d ả i nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây
Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen. Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình. Phía nam đô thành
có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại
thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.
Phù
Sai là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện thì lại
lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự. Tây Thi theo kế của Văn Chủng ra
sức mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần dần mất hết ý chí. Bởi chỉ khi nước Ngô suy yếu thì Việt mới có cơ hội phục thù.
Phù
Sai cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, rượu chè đàn địch,
chẳng thiết đến việc gì cả. Tây Thi, con người kiều diễm ấy, tuy có một
thân hình mảnh mai như cành liễu yếu nhưng tiềm tàng một sức mạnh phi
thường là quyết lật đổ cả một triều Ngô để đem lại sự chiến thắng vinh
quang cho đất Việt. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn của nàng, xưa kia là
để quay tơ giặt lụa nhưng nay lại để bóp nát dần cả một nước Ngô có
binh hùng tướng mạnh cho đến ngày tàn. Mắt nàng cau một cái là một cái
đầu của viên thượng tướng bị rơi. Môi nàng cười một nét là kho nhà Ngô
vơi đi bạc vàng, châu báu... Ngũ Viên, một vị Tướng quốc kiên trung,
đa mưu, túc trí, đầy tài dũng lược của triều Ngô vì nàng mà chết dưới
thanh kiếm Trúc Lâu của Ngô vương.
Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận. Ngô vương Phù Sai tự tử.
Tây
Thi làm tròn sứ mạng của một người nhi nữ đối với tổ quốc, nàng mong
được trở lại quê nhà thăm cha ở Trữ La thôn, nhưng vương phi Câu Tiễn
sợ rằng chồng sẽ say đắm sắc đẹp của nàng, nên mật sai người bắt Tây
Thi neo đá quăng xuống dòng nước Tam Giang. Thật là mụ đàn bà ghen
đanh ác.
Cái chết của Tây Thi nói trên là theo chính sử.
Có
truyện chép: Phạm Lãi yêu nàng Tây Thi nhưng thấy Việt vương Câu Tiễn
muốn lấy Tây Thi, nên ghen mới bày mẹo cho mụ vợ Câu Tiễn giết thác
nàng. Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu nhau, nên
trong trận tấn công nước Ngô, đốt phá Cô Tô đài, Phạm Lãi đón rước Tây Thi xuống thuyền, rồi cả hai bỏ nước đi du Ngũ hồ cho trọn tình chung thủy
2. Vương Chiêu Quân.
Chiêu
Quân Với sắc đẹp được ví là "lạc nhạn" (làm cho chim sa), câu chuyện
về nàng trở thành một đề tài sáng tác phổ biển của thi ca , nghệ thuật .
Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như một người đẹp hòa bình. Sự
quên mình của nàng góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa Trung Hoa và Hung Nô .
Chiêu
Quân tên là Vương Tường nên cũng được gọi là Vương Chiêu Quân . Nàng
là con gái của một gia đình thường dân ở Tỉ Quy, Nam Quận, nay là huyện
Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc . Được tuyển vào nội cung vào khoảng sau năm 40
TCN, đời vua Hán Nguyên Đế ( 49 TCN - 33 TCN ). Trong thời gian ở hậu
cung, Chiêu Quân chưa bao giờ được gặp mặt vua và vẫn chỉ là một cung
nữ.
Năm
33 TCN, thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Da đến Trường An để tỏ lòng thần
phục nhà Hán, một phần trong hệ thống triều cống giữa nhà Hán và Hung
Nô. Ông này nắm lấy cơ hội để đề nghị được trở thành con rể của vua
Nguyên Đế. Thay vì gả cưới một công chúa cho thiền vu thì Hô Hàn Da đã được ban cho 5 cung nữ từ hậu cung, một trong số này là Vương Chiêu Quân.
Theo
một câu chuyện trong Hậu Hán Thư (quyển 89, Nam Hung Nô liệt truyện)
thì Vương Chiêu Quân đã tình nguyện theo thiền vu này. Khi được vời đến triều đình thì vẻ đẹp của Chiêu Quân đã làm cho Nguyên Đế sững sờ và muốn thay đổi quyết định của chính mình.
Chiêu Quân trở thành người vợ được yêu quý của Hô Hàn Da, được phong là Ninh Hồ Át Chi . Họ sinh được hai người con trai, chỉ một trong số đó sống sót với tên
gọi là Y Chư Trí Nha Sư và một người con gái, tên là Vân, sau này là
một nhân vật đầy quyền lực trong hệ thống chính trị của Hung Nô.
Năm
31 TCN, Hô Hàn Da chết, Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán
Thành Đế đã buộc nàng phải theo tập quán nối dây của người Hung Nô và
Chiêu Quân trở thành vợ của thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề
- con trai lớn của Hô Hàn Da. Trong cuộc hôn nhân mới này nàng có hai
người con gái. Sau khi chết, Chiêu Quân được táng tại " Thanh Chủng " ,
mộ hiện nay vẫn còn tại phía nam thành Hô Hòa Hạo Đặc , Nội Mông Cổ .
Hòa bình giữa nhà Hán và Hung Nô đã được kéo dài trên 60 năm , tuy nhiên, sau này người ta đã không còn biết gì về các hậu duệ của Chiêu Quân.
Kể từ thế kỷ 3 trở đi thì câu chuyện về Chiêu Quân đã được phóng tác nên như là hình tượng của một nhân vật nữ đầy bi thương trong nhiều tác phẩm thơ ca hay kịch , chẳng hạn như của Lý Bạch , Đỗ Phủ , Bạch Cư Dị , Vương An Thạch , Quách Mậu Thiến , Mã Trí Viễn , Tào Ngu , Quách Mạt Nhược , Tiễn Bá Tán vv…
. Truyền thuyết : Chiêu Quân Cống Hồ
Vì số cung phi trong hậu cung của vua Nguyên Đế quá đông, nên nhà vua ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình các cung phi để nhà vua chọn. Các cung phi thường lo lót tiền cho họa sĩ để được vẽ cho đẹp, mong vua để ý tới. Chiêu Quân từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ , hậu quả bức chân dung nàng thật xấu xí, nàng không được Hán Nguyên Đế để mắt tới.
Một hôm hoàng hậu tình cờ biết tới Chiêu Quân qua tiếng đàn lâm ly ai oán của nàng. Bà đưa Chiêu Quân tới gặp Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế ngỡ ngàng vì sắc đẹp của nàng, phong Chiêu Quân làm Tây phi . Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng nề.
Thời
bấy giờ Hung Nô là nước lân bang thường xuyên mang quân sang quấy
nhiễu. Mao Diên Thọ bị Hán Nguyên Đế quở trách, đem lòng oán hận Chiêu
Quân, lấy chân dung Chiêu Quân nạp cho thiền vu (vua) Hung Nô là Hô Hàn
D a . Vua Hung Nô say đắm sắc đẹp của nàng, cất quân sang đánh, buộc Hán Nguyên Đế phải cống nạp Chiêu Quân thì mới bãi binh. Hán Nguyên Đế đành phải đem Chiêu Quân sang cho Hung Nô. Điểm này không khớp với lịch sử Hung Nô, do từ thời Hô Hàn D a thì các thiền vu đã chịu nộp cống phẩm cho nhà Hán.
Truyền thuyết nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng
nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc
ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn " Xuất tái khúc " . Có một con chim
nhạn bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột
gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ " lạc nhạn " trong câu " Trầm ngư lạc
nhạn " do đó mà có. (Trầm ngư đã được dàn h cho Tây Thi)
Khi qua Nhạn Môn Quan , cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã
cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Ngôi làng quê hương của nàng ngày
nay mang tên là làng Chiêu Quân. Dòng suối , nơi tương truyền nàng
từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là
Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai
địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao
Đầu , cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ
xanh).
. Những chi tiết còn mâu thuẫn
· Khi vẽ Chiêu Quân, có thuyết cho rằng Mao Diên Thọ đã vẽ thêm một nốt ruồi dưới khóe mắt và tâu với Hán Nguyên Đế đó là "Sát phu trích lệ", tướng sát chồng. Vì vậy Hán Nguyên Đế không cho vời nàng
tới tận khi Chiêu Quân bị cống sang Hung Nô. Một thuyết khác thì
Chiêu Quân tài hoa tự vẽ chân dung của mình, nhưng bức tranh đó bị Mao
Diện Thọ điểm thêm nốt ruồi "Sát phu trích lệ".
·
Nhà văn nổi tiếng Thái Ung ( 132 - 192 ) cho rằng vua Nguyên Đế đã
từng gặp Chiêu Quân, nhưng không biết cảm nhận vẻ đẹp của nàng. Chiêu
Quân vô cùng thất vọng và đau khổ sau nhiều năm sống cô độc trong cung
cấm. Từ đó, Thái Ung kết luận rằng quyết định sang Hung Nô của Chiêu
Quân là một hành động phản kháng lại vua Nguyên Đế.
· Về cái chết của Chiêu Quân cũng có nhiều giả thuyết.
1. Đến Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn.
2. Chiêu Quân đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.
3. Một thuyết khác cho rằng Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
Những
tác phẩm thơ ca viết về Chiêu Quân xuất hiện vào khoảng từ đầu thế kỷ
7 đến cuối thế kỷ 13 , thường dựa trên những dị bản của Ngô Quân. Đa
số đều nói về sự ra đi cùng nỗi oán hận của nàng. Chiêu Quân thường
xuất hiện với một vẻ đẹp u buồn, choàng khăn đỏ, mặc áo lông, ôm đàn tỳ
bà, cùng với một con bạch mã.
Từ thế kỷ 13 đã xuất hiện nhiều tác phẩm kịch nghệ về Chiêu Quân. Kịch tác gia nổi tiếng Mã Trí Viễn ( 1252 - 1321 ) dẫn đầu với vở kịch Hán Cung Thu, tập trung vào chủ đề bảo vệ đất nước. Khi người Hung Nô đe dọa biên cương nhà Hán, triều đình, đứng đầu là vua Nguyên Đế, không tìm được một phương sách hiệu quả nào. Chiêu Quân được miêu
tả như một người phụ nữ thông minh tuyệt đỉnh, luôn hết lòng vì hòa
bình và sự bảo tồn giang sơn nhà Hán. Nàng hoàn toàn tương phản với vị
hoàng đế kém cỏi và hèn nhát, viên thừa tướng thối nát bất tài, và tên
thợ vẽ tư lợi Mao Diên Thọ. Tiếc thay, vở kịch có chỗ còn chưa đạt.
Hai phần ba nội dung của kịch được dành để nói về chuyện tình giữa
hoàng đế và người cung phi, làm giảm đi hình ảnh anh hùng của Chiêu Quân.
Vào thời hiện đại, học giả Quách Mạt Nhược ( 1892 - 1978 ) đã
sáng tác một vở kịch mang tên Vương Chiêu Quân, miêu tả bi kịch của
Chiêu Quân như là hậu quả của mâu thuẫn giữa tinh thần dũng cảm và khao
khát tự do của nàng và những âm mưu đen tối của Nguyên Đế và Mao Diên
Thọ.
3. Điêu thuyền.

l

Điêu
Thuyền là một nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc . Điêu Thuyền được
mệnh danh là người đẹp bế nguyệt , có sắc đẹp khiến cho trăng cũng phải
xấu hổ mà giấu mình đi.
Điêu Thuyền bái nguyệt ở hậu hoa viên của Tư Đồ Vương Doãn, đại thần của Hán Hiến Đế thời Tam Quốc. Đột nhiên có một cơn gió nhẹ thổi đến, một vầng mây trôi che khuất mặt trăng. Đúng lúc đó, Vương Doãn bước ra nhìn thấy. Để khen con gái nuôi mình xinh đẹp như thế nào, Vương Doãn thường nói với mọi người rằng con gái mình đẹp đến n ỗ i trăng sáng nhìn thấy cũng phải trốn vào sau lưng mây. Vì vậy, Điêu Thuyền được mọi người xưng tụng là "Bế Nguyệt".
Lúc bấy giờ Đổng Trác lộng hành quá mức, tự xưng là thượng phụ, khi ra vào dùng toàn nghi vệ thiên tử.
Một hôm Trác ra ngoài
cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn. Trác mời các quan ở lại uống rượu,
đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất Bắc đến. Trác sai đem
ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất.
Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không.
Quan Tư Đồ Vương Doãn vô cùng căm ph ẫn muốn diệt Đổng Trác nhưng không biết làm thế nào, ngày đêm nôn nóng ngồi đứng không yên, nửa đêm thao thức nhìn trời nhìn trăng than khóc một mình. Tình cờ một đêm Vương Doãn bắt gặp đứa con nuôi trong nhà là Điêu Thuyền đang ngắm trăng, bèn nảy ra một kế liên hoàn và dạy cho Điêu Thuyền cố gắng thực hiện để cứu lấy sinh linh nhà Hán.
Trước tiên Vương Doãn mời Lữ Bố đến tư dinh của mình để hầu rượu. Khi rượu đã qua nhiều tuần, Lữ Bố đã ngà ngà say, Vương Doãn cho Điêu Thuyền xuất hiện để hầu rượu tướng quân Lữ Bố:
Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt
Vương Doãn giả tảng say, nói:
- Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy.
Bố mời Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói:
- Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.
Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn.
Lữ Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén.
Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng:
- Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không?
Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng:
- Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.
Doãn nói:
- Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân.
Lữ Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại.
Vài hôm sau Vương Doãn lại đến mời Thừa Tướng Đổng Trác. Cũng với màn kịch hôm trước với Lữ Bố, Điêu Thuyền xuất hiện với dáng điệu thẹn thùng khép nép.
Trác hỏi:
- Biết hát không?
Doãn sai Ðiêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.
Thật là:
Môi son hé nở cánh đào tân
Ngọc trắng hai hàng nhả ánh xuânÐầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc
Rắp toan chém cổ kẻ gian thần!
Ðổng Trác khen nức nở. Doãn sai Thuyền dâng rượu.
Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng: - Xuân xanh năm nay bao nhiêu?
Thuyền thưa: - Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám.
Trác cười nói rằng: - Thật là người chốn thần tiên!
Doãn đứng dậy thưa rằng:
- Chúng tôi có ý định muốn dâng lên Thái Sư, không biết Thái Sư có nhận cho không.
Ðổng Trác nói:
- Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại.
Doãn nói:
- Nếu nó được hầu hạ Thái Sư thì thực phúc cho tôi lắm.
Trác cảm tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Ðiêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.
Đời sau, có người ái mộ vẽ đẹp của Điêu Thuyền đã tả lại cảnh nàng hát và hầu rượu Đổng Trác:
Rèm châu vừa cuốn lên, thì Điêu
Thuyền nhè nhẹ gót hài bước ra, xiêm y thướt tha, mình liễu uyển
chuyển múa trước rèm châu như tiên nữ nhập động. Điêu Thuyền lại hát.
Nàng vừa cầm phách gõ nhịp cất giọng ca. Giọng trong như oanh kêu, cao
như hạc gọi, khi trầm khi bổng thánh thót như rót vào tai, mà huyền
huyền ảo ảo làm mê hồn tục khách.
Như vậy, Theo liên hoàn kế của Tư đồ Vương Doãn, Điêu Thuyền được gả cho cả 2 cha con nuôi Đổng Trác và Lã Bố để tùy cơ ly gián, một mặt tỏ vẻ yêu quí Đổng Trác, nhưng khi đến với Lã Bố thì lại ra sức quyến rũ, khi đến cao trào thì Lã Bố chịu không nổi đả kích giết luôn Đổng Trác . Mưu sĩ Lý Nho của Đổng Trác biết trước sự nguy hiểm của Điêu Thuyền, nhưng không sao can thiệp được mà trước đó chỉ biết thốt lên " Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà này " .
Trong "Thánh Thán Ngoại Thư", Mao Tôn Cương viết về Ðiêu Thuyền như sau:
"18 lộ quân chư hầu không giết nổi Ðổng Trác, mà một thiếu nữ đào
tơ liễu yếu như Ðiêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan,
Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Ðiêu Thuyền
thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm
chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ,
lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến
lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của "nữ tướng quân" quả là tuyệt
cao cường, đáng sợ thay!"
Có
tài liệu cho rằng Điêu Thuyền thời Tam Quốc không có thật. Đó là La
Quán Trung đã hư cấu trong Tam Quốc Diễn Nghĩa dùng hình tượng Điêu
Thuyền là con gái nuôi của Tư đồ Vương Doãn làm mỹ nhân kế để ly gián cha con Đổng Trác. liên kết với Lã Bố làm cuộc đảo chính cung đình, giết Đổng Trác.
Thật ra Điêu Thuyền là nhân vật trong kịch đời nhà Nguyên, tức một nghìn năm sau, chứ không phải ở thời Tam quốc. Tạp kịch đời nhà Nguyên là Liên hoàn kế, nói Điêu
Thuyền họ Nhiệm, con gái Nhiệm Ngang, tên là Hồng Xương, làm nhiệm vụ
coi giữ kho mũ lông điêu, nên cô ta có tên là Điêu Thuyền.
4. Dương Quý Phi.


Dương Quý
Phi là một cung phi tuyệt sắc của Đường
Minh Hoàng
(tức Đường
Huyền Tông). Quí phi tục danh là
Ngọc Hoàn sinh ở tỉnh Tứ Xuyên vào khoảng năm 719. Nàng là con út trong
số bốn người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục
Chân.
Gia đình này nguyên gốc ở một quận nhỏ thuộc
Trung Đông
(Thiểm Tây) là
Hòa Âm đến
đây lập nghiệp. Cha là
Dương Huyền Diễn thuộc dòng khá giả vì tổ phụ từng
làm thứ sử tại quận Kim.
Năm 727, Hoàng Thọ vương
Lý Dục, con thứ 18 của Huyền Tông đi
tuần tiễu miễn Tứ Xuyên đến tiếp xúc
với gia đình
nàng. Rồi 9 năm
sau, nàng được tiến
cung hầu Lý Dục, kết duyên
cầm sắt.
Có sách lại
chép: Thọ vương Lý Dục tính nhút nhát, thích ngắm mỹ
nhân.
Dương Ngọc Hoàn về hầu hạ Lý Dục được
ba năm, nhưng tình
chăn
gối chẳng bao giờ có vì
Lý Dục còn nhỏ. Giữa lúc ấy, Ngọc Hoàn lại xinh tươi
lộng lẫy trong tuổi dậy thì.
Sắc đẹp của nàng đã làm cho một đại thi hào lúc bấy giờ
là Lý Bạch phải ca tụng bằng ba bài "Thanh bình điệu". Đây
là bài
thứ nhứt:
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,Xuân phong phật hạm, lộ hoa nùng.Nhược chi quần ngọc sơn đầu kiến,Hội hướng Đao đài nguyệt hạ phùng.…………
Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng.Gió xuân dìu dặt giọt sương trongVí chăng non ngọc không nhìn thấy,Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông.(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Đời nhà
Đường, Huyền Tông là một ông vua tương đối trị vì
lâu hơn cả. Các cung phi được nhà vua sủng ái sinh cả
thảy 59 người con. Trong số đó có 30 trai và 29 gái. Nàng
cung phi được nhà vua sủng ái rất mực là Vũ Huệ Phi.
Nàng sinh được 7 con, nhưng bỏ mất 3 khi còn nhỏ.
Huệ Phi mất,
Huyền Tông buồn rầu, ngày nhớ đêm thương, lập
đài Tập Linh để cầu siêu cúng vái cho vong hồn Huệ Phi
được sớm siêu thăng. Nội giám thấy nhà vua buồn bã
nhớ thương người cũ bèn tìm đủ
mọi cách làm
cho nhà vua nguôi buồn. Nhưng bao nhiêu cung tần mỹ nữ chọn
đến hầu hạ gối chăn, không ai làm khuây khoả được
nỗi lòng nhớ thương người cũ của nhà vua cả.
Một hôm
Cao Lực sĩ đi qua phủ Thọ vương thấy Ngọc Hoàn tư dung
mỹ lệ, cốt cách thanh kỳ, thật là một giai nhân tuyệt
đẹp trên đời có một, bèn nghĩ rằng có lẽ mỹ nhân
này thay được Vũ Huệ Phi. Nhân buổi hầu vua, Cao Lực
sĩ mật tấu với Huyền Tông, truyền đưa Dương Ngọc Hoàn
vào Tập Linh đài để trông coi đèn nhang sớm hôm cầu
nguyện cho Vũ Huệ Phi.
Do đó, Ngọc
Hoàn phải vào cung Hoa Thanh đến đài Tập Linh làm sãi,
lấy đạo
hiệu là
Thái Chân. Cao Lực sĩ lại chọn con gái của Vị Chiêu để thay Ngọc
Hoàn làm
vợ Thọ vương Lý Dục.
Trông thấy
Ngọc Hoàn, vua Huyền Tông bỗng thấy lòng rung động xao xuyến,
hình ảnh
Huệ Phi phai mờ, rồi nỗi buồn rầu thương nhớ người
cũ tiêu tan để nhường lại những nụ cười cởi mở,
những cái liếc nhìn say đắm...
Rồi từ đó, Huyền Tông đâm say mê,
thường triệu nàng vào hầu hạ mình rồng, tình ngày một
mặn nồng, ý ngày thêm đượm
sắc.
Nhà vua say đắm Ngọc Hoàn còn hơn Vũ Huệ
Phi nữa, nên lập nàng làm quý phi, lại sắc phong Dương
Huyền Diễn làm Binh bộ thượng thư. Ba chị của Ngọc
Hoàn cũng được phong làm phu nhân là Hàn quốc phu nhân,
Quốc quốc phu nhân và Tần quốc phu nhân. Hàng tháng, nhà
vua cho xuất của kho 30 vạn quan tiền cho mỗi vị phu nhân,
10 vạn quan tiền mua sắm tư trang phấn sáp. Anh họ quí
phi là Dương Xuyên được phong làm tể tướng và được
đổi tên là Dương Quốc Trung, uy quyền nghiêng đổ thiên
hạ. Còn riêng về Dương Quý Phi thì không cần phải nói,
nhà vua chiều chuộng mọi điều,
luôn luôn làm
thỏa mãn ý muốn của con người đẹp. Như cuộc đi tắm
suối của nàng mỗi lần tốn hàng vạn bạc của kho và
làm chết hàng trăm mạng người, nhà vua cũng thẳng tay,
không chút tiếc rẻ.
Dương Quý
Phi đã đẹp
lại có tài
gẩy tì bà, tỏ ra giỏi về âm nhạc. Nàng lại đặt được
nhiều khúc hát và điệu múa làm cho lòng của
một ông vua nghệ sĩ cang thích thú say sưa.
Huyền Tông
gặp Dương Quý Phi bấy giờ nhà vua tuổi đã ngoài 50, cơ thể
suy nhuợc vì trải qua những thú vui sắc dục thái quá ...
Vua nhờ An Lộc Sơn dâng một thứ linh đan gọi là "Trợ
tình hoa" để
có nhiều sức khỏe được hòa
hợp vui say cùng mỹ nhân.
Minh Hoàng
say đắm
Dương Quý Phi, suốt ngày đêm
cùng nàng yến tiệc đàn ca, bỏ cả việc
triều chính. Nhà vua lại tin dùng An Lộc Sơn là một võ
tướng Phiên, cho giữ phần chỉ huy nửa lực lượng quân
sự của triều đình.
Có sách lại
chép An Lộc Sơn được Dương Quý Phi nhận làm con nuôi, được tự do
ra vào
cung cấm để
cùng thông
dâm với quý phi. Nhà vua mù quáng, không hiểu biết gì cả.
Bấy giờ,
Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực. Sau khi lến
đến bực thượng thư và hai con trai là Dốt và Huyên sánh
duyên cùng hai quận chúa Vạn Xuân và Diên Hòa, Dương Quốc
Trung lại càng kiêu hãnh, tự đắc,
có ý định phản nghịch. Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước
mắt nên định mưu hại.
An Lộc Sơn biết được nên
bỏ trốn. Rồi vào ngày 16 tháng 12 năm
755, An cử binh từ quận Ngư Dương (có sách chép là Phạm Dương)
đánh thẳng vào kinh đô Trường An.
Binh triều
đại bại.
Đường Huyền
Tông lúc bấy giờ đã 70 tuổi.
Vào mùa hạ
năm
756, quân của An Lộc Sơn tiến đến Trường An. Nhà vua và Dương
Quý Phi cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy
vào đất
Thục. Ngày
14 tháng 7 năm
756, mọi người đến Mã
Ngôi thì tướng sĩ không chịu đi nữa, vì lương thực
đã hết, quân sĩ khổ nhọc mà Dương Quốc Trung và cả
gia quyến đều no đủ sung sướng, nên họ nổi lên chống
lại. Dương Quốc Trung ra lịnh đàn áp nhưng bị loạn quân
giết chết. Lòng căm
phẫn đối với họ Dương chưa tan, loạn quân lại bức
vua đem thắt cổ Dương Quý Phi thì
họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quý Phi là mầm sinh đại loạn.
Nhà vua không thể
làm thế nào hơn, đành giấu mặt cắt lòng mà hy sinh nàng
cung phi họ Dương, một trang quốc sắc thiên hương giữa
thời 38 xuân xanh!
Mộng chiếm
đoạt ngai vàng chưa bằng mộng chiếm đoạt con người
đẹp, nhưng nay người yêu đã mất, mộng tình tan vỡ,
An Lộc Sơn tức giận sinh cuồng, ra lịnh cho quân lính đốt
phá kinh đô, tàn sát nhân dân. Sử chép: "Có 36 triệu
sinh linh chết trong cơn loạn ấy. Rợ Phiên gặp ai cũng
chém cũng giết, thực là một cuộc đổ máu không tiền
khoáng hậu trong lịch sử Trung Hoa, mà nguyên nhân sâu xa
là do cái sắc của một người đàn bà dâm loạn".
Sau An Lộc
Sơn bị con là Khánh Tự giết chết. Bộ tướng là Sử
Tư Minh lại giết Khánh Tự mà hàng nhà Đường. Minh Hoàng
khôi phục sự nghiệp, trở về Trường An để mục kích
cảnh điêu tàn nơi đế khuyết.
Đế đô
còn đó
mà con
người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ
thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng. Và đôi
mắt già
nua kia càng mờ đi
vì đọng lệ.
. Những
bức họa Dương Quý Phi tắm suối
Đường
Minh Hoàng
tuy già nhưng vẫn đa tình và rất mực phong lưu. Còn Dương
Quý Phi tức Dương Ngọc Hoàn là một giai nhân có một sắc
đẹp nứt vàng tan đá.
Quý phi thích đi tắm suối.
Mỗi lần đi phải phí tổn cả hàng
vạn bạc. Nghe nói trên Quái Nham có cảnh đẹp,
có suối trong khác thường, ai tắm sẽ được trường thọ.
Vừa tham sống, vừa có tính tò
mò nên quý phi đòi Minh Hoàng cho đi kỳ được.
Muốn cho
mỹ nhân vui lòng,
Minh Hoàng không quản khó nhọc, hạ chỉ cho quan lại địa phương
phải moi óc nghĩ cách làm
cho được
con đường lên
núi. Hạn trong nửa tháng, làm xong sẽ hậu thưởng; bằng
không sẽ cho tuột chức nghỉ vô thời hạn.
Tiếp chỉ,
quan địa phương xiết bao lo sợ. Sau có người bày cách
kết mây làm cầu, chôn hai cây to dưới đất, rồi từ
đó các đợt cầu mây cứ kế tiếp nối nhau đến tận
cửa hang. Vì phải làm gấp và leo trèo khó khăn
nên tốn
kém có hơn 10 vạn bạc và số nhân công sơ sẩy bị té
chết có hàng trăm.
Cầu làm
chắc chắn và đi rất êm. Minh Hoàng và quí phi lên được
đến nơi cho là một cuộc viễn du khó có. Muốn làm kỷ
niệm, Minh Hoàng mới tìm một thợ vẽ khéo, vẽ lại diễm
tích trên núi.
Một cuộc
tắm mát đã làm cho người
yêu như ý, Minh Hoàng vui mừng khôn xiết, hậu thưởng quan
quân và dân chúng miền đó. Nhưng thấy làm hao hụt hàng
vạn của kho và làm chết hàng trăm mạng người, Minh Hoàng
cấm sử quan ghi chép và không ai được nói chuyện ấy.
Truyện kể, Quái Nham là một hòn núi kỳ quái, hiểm hóc ở về phía nam tỉnh Thiểm Tây. Ở lưng chừng, có một cái hang, cửa hang càng vào trong càng rộng.
Tới mãi trong cùng thì có một bãi đất
lộ thiên độ
vài chục
mẫu, cỏ mọc xanh rờn như một nệm gấm, phẳng phiu. Ở
đây có nhiều thứ cây lạ. Mỗi cây có một thứ hoa đủ
các hình sắc.
Chung quanh bãi ấy, thân núi dựng đứng như bức
tường dài.
Vách núi nhiều chỗ lại phẳng trơn như mài, mỗi chỗ
mỗi sắc, bóng nhoáng rất đẹp. Dưới những vách đá
là một suối nước dài lượn theo. Dòng suối ấy cứ cách
một quãng có những giọt nước từ trên khe đá tí tách
rỏ xuống; hay những tia nước từ trong các mạch đất
cuồn cuộn tuôn ra, hợp với dòng suối chảy tạo nên những
tiếng êm tai như âm nhạc. Dòng suối có chỗ sâu hàng trượng,
nước trong vắt, trông suốt cả những hòn đá
nhỏ trắng phau dưới đây.
Thật là một cảnh thần
tiên!
Trông về
vách phía đông,
thấy có một hàng
chữ to có vẻ cổ kính "Dương Quý Phi toàn dục diễm
tích" nghĩa là "Dấu vết xinh đẹp
khi Dương Quý Phi tắm suối". Đây là
một khoảng vách đá
dài độ mươi trượng,
rộng độ hai trượng có nhiều bức vẽ đều từng lúc
Dương Quý Phi tắm suối thế nào.
Các nét vẽ đều
chạm khắc sâu vào
thân vách nên dù màu có hơi nhạt nhưng nét vẫn còn rõ
ràng như mới.
Tất cả
chừng 10 bức vẽ.
Đây là lúc
Dương Quý Phi cởi áo.
Đây là lúc nàng còn
ngồi trên phiến đá
thò chân
khoắng nước.
Đây là lúc
nàng đùa nghịch lấy tay đập nước, giọt nước bắn
tung lên.
Và, đây
là lúc nàng lội suối theo những chỗ nông sâu; ngấn nước
trong veo dần dần mờ in trên cái thân mình tha thướt uyển
chuyển, da trắng như tuyết...
Và, mỗi
bức vẽ đều vẽ quý phi từ dưới suối nhìn lên cái
ông chồng già Đường
Minh Hoàng đương ngồi
tựa mình
trên vách đá,
đôi mắt đắm say nhìn
giai nhân mà tủm tỉm cười tình.
Dù đã
cách có hàng năm
sáu trăm năm mà
xem đôi
bạn tình
vương giả ấy như đã học được
thuật trường sinh, đem nhau đến chốn này,
riêng hưởng cái diễm phúc mà người đời khó ai tìm được.
Dưới
những bức họa ấy có đề ngày
tháng năm
đã vẽ
ghi cái diễm tích ấy. Tức là ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ mười
(theo Dương lịch là năm 752).
16 Đại mĩ nhan còn lại mình xin tóm tắt qua:
Ban Chiêu
Em gái của Ban Cố, Ban Siêu. Ban Cố soạn Hán Thư, bộ sử nối tiếp Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư chưa kịp hoàn thành thì Ban Cố bị Lạc Dương Lệnh hãm hại mà chết, Ban Chiêu giúp anh hoàn tất phần “Thiên Văn Chí” trong Hán Thư.
Thái Diễm
Tức Thái Văn Cơ, con gái của quan Nghị Lang Thái Ung thời Đông Hán.
Trác Văn Quân
Vợ của Tư Mã Tương Như thời Hán!
Tạ Đạo Uẩn
Võ Tắc Thiên
Nữ hoàng Võ Tắc Thiên đại đế (624 – 705), cổ vãng kim lai duy chỉ có 1 người này. Võ Tắc Thiên là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Cũng có các tiểu nữ hoàng khác từng ngồi trên bảo tọa của hoàng đế, nhưng các quan điểm hiện nay chỉ xem Võ Tắc Thiên là nữ hoàng duy nhất, bởi vì bà lên ngôi hoàng đế bằng chính thực lực của bản thân, không phải là tượng gỗ nghe theo sự điều khiển của kẻ khác.
Thượng Quan Uyển NHi
Cháu gái Thượng Quan Nghị, hiệu xưng là Cân Quốc Thủ Tướng đầu tiên. Thời Đường Cao Tông, cháu gái tể tướng Thượng Quan Nghị là Thượng Quan Uyển Nhi, thông thuộc thi thư, không những biết ngâm thơ viết văn mà còn hiểu biết chuyện xưa nay, thông minh mẫn tiệp dị thường. Sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, là nữ Tể tướng đầu tiên của lịch sử TQ.
Ban Tiệp Dư
Ban Tiệp Dư là con nhà danh môn, còn trẻ đã học thành tài, thời Hán Thành Đế được lập làm Tiệp Dư. Chị em Triệu Phi Yến sau khi đắc sủng, ganh ghét tài năng phẩm hạnh của Ban Tiệp Dư, Ban Tiệp Dư ngày đêm lo sợ nên xin theo hầu thái hậu ở cung Trường Tín. Có thể bài “Đoàn Phiến Thi” được sáng tác tại cung Trường Tín, bài thơ nhỏ này dùng từ thái mới mẻ, tình như ai oán, biểu hiện thật ủy uyển hàm súc, có một loại khí độ oán mà không giận.
Chân Hoàng Hậu
Sau khi Tào Phi [con trai Tào Tháo đời Tam Quốc] xưng đế, sủng hạnh Quách hoàng hậu, Quách hậu cậy đắc sủng nên gièm pha Chân hoàng hậu, từ đó Chân hoàn hậu thất sủng. Sau khi bị vua bỏ lơ không nói đến, từ “Đường Thượng Hành” có thể đọc thấy được lòng tương tư cực chí của một người vợ đối với trượng phu, một lòng thâm tình vô hối. Sự chờ đợi của Chân hoàng hậu đáng thương cuối cùng chỉ là một tờ giấy chết của Tào Phi. Thậm chí sau khi chết, thi thể phải lấy tóc che mặt, lấy trấu lấp miệng, chịu nỗi khổ vũ nhục và lăng ngược
Hoa Nhị Phu Nhân
Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từng ngưỡng mộ tài danh của Hoa Nhị Phu Nhân. Hoa Nhị Phu Nhân là Phí Quý Phi của Hậu Thục Hậu Chủ - Mạnh Xưởng, xuất thân là 1 ca kỹ ở Thanh Thành (nay ở phía Đông Nam thành phố Giang Yển). Tương truyền “Hoa Nhị Phu Nhân Cung Từ” có hơn 100 biến, trong đó thật ra chỉ có hơn 90 biến. Khi Tống diệt Hậu Thục, chỉ dùng có 1 vạn quân, 14 vạn quân Hậu Thục không chiến mà hàng, Hoa Nhị Phu Nhân theo Mạnh Xưởng lưu vong về phương bắc, đêm nghỉ ở Gia Minh dịch trạm, cảm hoài nỗi buồn nước mất nhà tan, đề lên vách quán bài “Thái Tang Tử”. Nhưng vì quân kỵ thôi thúc nên bị mất hết một nửa, cứ viết được 1 chữ lại rơi lệ.
Hầu Phu Nhân
Tùy Dạng Đế Dương Quảng tại vị, quảng cáo cao lâu, bắt hàng ngàn thiên hạ mỹ nữ nhốt vào trong đó, Hầu Phu Nhân chính là 1 trong số hàng ngàn cung nữ đó mà suốt cả cuộc đời cũng chưa hề gặp được Tùy Dương Đế, cuối cùng tự ải mà chết
Đường Uyển
Nữ sĩ "Đường Uyển", biểu muội [em họ] của Lục Du. Tác phẩm tiêu biểu : “Thoa Đầu Phụng”
Tiết Đào
Nữ thi nhân thời Đường, người gọi là Nữ Hiệu Thư, từng xướng họa cùng thi nhân nổi tiếng đương thời Nguyên Trẩn, thực lực không thua kém. Tác phẩm tiêu biểu : Ngô Đồng Thi (làm khi mới 8 tuổi)
Tiết Đào (770-832), tự Hồng Độ. Cha Tiết Vân là một viên tiểu lại ở kinh đô, sau loạn An Sử dời đến ở Thành Đô, Tiết Đào sinh vào năm thứ 3 Đại Lịch thời Đường Đại Tông. Lúc còn nhỏ đã thể hiện rõ thiên phú hơn người, 8 tuổi đã có thể làm thơ, cha từng ra đề “Vịnh Ngô Đồng”, ngâm được 2 câu “Đình trừ nhất cổ đồng, tủng cán nhập vân trung”; Tiết Đào ứng thanh đối ngay : “Chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong”. Câu đối của Tiết Đào như dự đoán trước mệnh vận cả đời của nàng. Lúc 14 tuổi, Tiết Vân qua đời, Tiết Đào cùng mẹ là Bùi Thị nương tựa nhau mà sống. Vì sinh kế, Tiết Đào bằng dung mạo và tài năng hơn người tinh thi văn, thông âm luật của mình bắt đầu đến các nơi ăn chơi hoan lạc, rót rượu, phú thi, đàn xướng hầu khách nên bị gọi là “Thi Kỹ”.
Thời Đường Đức Tông, triều đình mời Trung thư lệnh Vĩ Cao làm Tiết độ sứ Kiếm Nam, thống lược Tây Nam, Vĩ Cao là một quan viên nho nhã cũng có tài thơ văn, ông nghe nói về tài năng xuất chúng của Tiết Đào mà còn là hậu nhân của quan chức triều đình, liền phá lệ mời nàng dùng thân phận nhạc kỹ đến Soái Phủ đãi yến phú thi, Tiết Đào trở thành Doanh Kỹ nổi tiếng ở Thành Đô (Nhạc kỹ chính thường được mời đến các cuộc vui chơi của võ quan trấn thủ các nơi). Sau 1 năm, Vĩ Cao mến tài Tiết Đào, chuẩn bị tấu xin triều đình để Tiết Đào đảm nhiệm quan chức Hiệu Thư Lang, tuy chưa kịp thực hiện nhưng danh hiệu “Nữ Hiệu Thư” đã không kính mà đến, đồng thời Tiết Đào cũng được gọi là “Phụ Mi Tài Tử”. Về sau, Vĩ Cao vì trấn thủ biên cương có công nên được phong làm Nam Khang Quận Vương, rời khỏi Thành Đô. Lý Đức Dụ tiếp nhiệm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ cũng rất ngưỡng mộ tài năng của Tiết Đào. Trong suốt cuộc đời của Tiết Đào, Kiếm Nam Tiết Độ Sứ tổng cộng có 11 người thay phiên đảm nhiệm, người nào cũng vô cùng thanh lãi và kính trọng nàng, địa vị của nàng đã vượt xa một tuyệt sắc hồng kỹ tầm thường.
Chu Thục Chân
Nữ từ nhân nổi tiếng thời Đường, hiệu xưng U Thê Cư Sĩ, được biết là một tài nữ người ở Tiền Đường thời Tống, thi từ đều giỏi, đương thời chỉ có nàng mới xứng tề danh với Lý Thanh Chiếu. Tác phẩm tiêu biểu có “Đoạn Trường Tập” và “Đoạn Trường Từ” được lưu truyền, nổi tiếng nhất là “Điệp Luyến Hoa”.
Chu Thục Chân có cuộc đời khá u sầu. Nguyên nàng có một ý trung nhân lý tưởng, cũng là người tài hoa mà nàng tự quen biết. Nhưng phụ mẫu không cho phép nàng kết hôn với ý trung nhân của mình, mà gả nàng cho 1 thương nhân. Chồng nàng là người chỉ biết kiếm tiền, đối với thi từ và tranh vẽ của nàng đều không có hứng thú, vì vậy mà cuộc sống của nàng lúc nào cũng đầy u sầu và tẻ nhạt
Quách Ái
Liễu Như
Nữ thi nhân nổi tiếng thời Đường, đứng đầu Tần Hoài Bát Diễm
Lý Sư Sư
Ca kỹ được vua Tống Huy Tông sủng ái nhất. Sau loạn 108 anh hùng Lương Sơn Bạc, nàng từ bỏ mọi thứ bỏ trốn theo Lãng tử Yến Thanh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét